Cuốn sách Phát minh hủy diệt môi trường: Chất độc màu da cam,
Việt Nam, và những nhà khoa học làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về môi
trường (*) được đánh giá là một trong những tài liệu nghiên cứu giàu thông tin
và toàn diện nhất về chất độc da cam cho đến nay.
Được sự đồng ý của tác giả, TTCT trích đăng trong hai kỳ một số
nội dung của quyển sách.
Kỳ 1: Từ chất diệt cỏ đến vũ khí công nghệ
Trưởng khoa thực vật thuộc Đại học Chicago, GS Ezra E.J. Kraus,
là nhà khoa học Mỹ đầu tiên nhận ra tiềm năng quân sự của hóa chất diệt cỏ ngay
từ khi nước Mỹ bắt đầu tham dự Thế chiến thứ hai. Ngày 17-2-1942, ông đã trình
bày một báo cáo về khả năng sử dụng các chất diệt cỏ như một loại vũ khí quân
đội trong cuộc họp tối mật của Ban tư vấn chiến tranh Mỹ.
Thử nghiệm thành công từ Thế chiến thứ hai
Vào thời điểm đó, giới khoa học Mỹ vẫn còn đang trong giai đoạn
khám phá tác động của các loại hóa chất này. Các dự án nghiên cứu trên diện rộng
mà GS Kraus chủ trì được tiến hành trong thập niên 1940 đã kết hợp hai hóa chất
2,4-D và 2,4,5-T (chiếm 50% trong hợp chất da cam) và thử nghiệm thành công
trong môi trường giả lập chiến tranh. Tuy nhiên, quân đội Mỹ đã không sử dụng
hợp chất mới phát minh này trong suốt Thế chiến thứ hai.
Khoảng mùa thu năm 1961, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam (MTDTGP) đã tiến gần đến thế lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đứng trước
khả năng thất bại trên mặt trận quân sự và ngoại giao ở nhiều nơi, đặc biệt là
Cuba và Berlin, tổng thống Kennedy và nhóm cố vấn đối ngoại của mình bắt đầu
tính đến việc phát động các chiến dịch quân sự công nghệ cao như một cách đối
phó với sự mở rộng của khối các quốc gia cộng sản.
Các chất diệt cỏ do nhóm nghiên cứu của GS Kraus phát minh
trong Thế chiến thứ hai trở thành vũ khí trọng tâm trong chiến lược chống chiến
tranh du kích, với mục đích hủy hoại môi trường sống và nguồn lương thực của du
kích MTDTGP trên toàn vùng nông thôn Nam bộ.
Ngày 26-4-1961, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ Roswell L.
Gilpatric trình lên tổng thống Kennedy một chương trình hành động, trong đó đề
cập việc thành lập một trung tâm nghiên cứu và phát triển đóng tại miền Nam Việt
Nam, chịu trách nhiệm phát minh các kỹ thuật chống du kích, với lý do quân đội
Mỹ thời đó không có đủ phương tiện theo dõi trên không để định vị lộ trình của
du kích MTDTGP.
Hai tuần sau đó, chính phủ Ngô Đình Diệm thông qua kế hoạch
này, và Cơ quan Dự án nghiên cứu cấp cao thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ chính thức thành
lập Trung tâm Thí nghiệm phát triển và chiến đấu (CDTC).
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của CDTC là tìm ra hợp chất
hóa học để hủy hoại bề mặt rừng và các loại nông lương mà du kích MTDTGP tiêu
thụ. Ở giai đoạn thử nghiệm, CDTC tiếp nhận lô hàng thiết bị và chất diệt cỏ đầu
tiên vào ngày 10-7-1961. Sau đợt thử nghiệm thành công, giám đốc James W. Brown
xác nhận hợp chất phát quang cây cỏ sẽ là thành tố chính trong chiến lược đối
phó với chiến tranh du kích. “Không ai đánh giá cao lương thực và tầm nhìn bằng
những kẻ bị mất hai thứ này” - ông nhấn mạnh.
Vỏ bọc của “chiến tranh diệt cỏ”
Ban đầu quân đội Mỹ dự kiến chỉ trang bị và huấn luyện cho lực
lượng không quân Việt Nam cộng hòa (VNAF) tiến hành “chiến tranh diệt cỏ” (tạm
dịch từ herbicidal warfare). Ngày 24-8-1961, tổng thống Diệm đích thân lựa chọn
mục tiêu, và máy bay C-47 của VNAF tiến hành đợt rải hóa chất đầu tiên xuống
vùng rừng miền Nam Việt Nam. Ông Diệm lập tức nhận ra sự lợi hại của loại hình
chiến tranh này.
Trong buổi họp ngày 29-9 với đại sứ Mỹ Fredrick Nolting và
trung tướng McGarr, tổng thống Diệm đề xuất tiến hành chiến dịch rải hóa chất
trên diện rộng tại vùng cao nguyên Trung bộ để diệt nguồn lương thực mùa thu của
du kích MTDTGP, nhưng không nhận được lời hứa hậu thuẫn chính thức từ phía
Mỹ.
Tuy vậy, một tuần trước đó, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ
đã đồng soạn thảo một văn bản trong đó phác thảo kế hoạch cấp kỳ để ngăn chặn sự
sụp đổ của chính quyền Diệm. Kế hoạch này bao gồm một loạt chiến dịch quân sự
chống du kích mà nếu thành công sẽ loại bỏ khả năng quân đội Mỹ phải gửi quân
tham chiến trực tiếp. Văn bản này ghi rõ bốn mục tiêu của chiến tranh diệt cỏ
theo đề xuất của CDTC:
1. Phát quang vùng rừng biên giới Lào - Campuchia - Bắc
Việt Nam để loại bỏ “vỏ bọc” bảo vệ quân MTDTGP.
2. Phát quang một phần vùng đồng bằng Mekong (vùng D) được coi là khu vực mà quân du kích MTDTGP có nhiều căn cứ.
3. Phát quang các vùng trồng sắn được coi là nguồn lương thực của du kích.
4. Phát quang các vùng rừng đước được coi là nơi du kích ẩn náu.
2. Phát quang một phần vùng đồng bằng Mekong (vùng D) được coi là khu vực mà quân du kích MTDTGP có nhiều căn cứ.
3. Phát quang các vùng trồng sắn được coi là nguồn lương thực của du kích.
4. Phát quang các vùng rừng đước được coi là nơi du kích ẩn náu.
Chiến dịch rải hóa chất dự kiến sẽ chấm dứt trong vòng 120
ngày, tiến hành trên một diện tích rộng bằng một nửa miền Nam Việt Nam, với tổng
ngân sách 55,9 triệu USD. Tuy cuối cùng đề xuất này đã được thay thế bằng một đề
xuất khác của Đại sứ quán Mỹ tại miền Nam - cùng quy mô nhưng chi phí chỉ bằng
1/10, văn bản nói trên cho thấy bước chuyển quan trọng trong chính sách chiến
tranh của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đánh dấu việc “Mỹ hóa” loại hình chiến tranh
diệt cỏ.
Tháng 11-1961, quân đội Mỹ đã sẵn sàng vận chuyển hóa chất và
thiết bị sang Việt Nam, chỉ còn chờ lệnh của tổng thống Kennedy. Vào thời điểm
đó, tổng thống Mỹ đã nhận được đề xuất của ban cố vấn đối ngoại của chính phủ,
trong đó có ngoại trưởng Dean Rusk và bộ trưởng quốc phòng McNamara.
Tuy cả hai đều thừa nhận loại hình chiến tranh này có thể gây
tranh cãi, ngoại trưởng Rusk khẳng định các chiến dịch rải hóa chất không vi
phạm luật quốc tế và “là một chiến lược chiến tranh có thể chấp nhận được”. Đồng
thời, ông McNamara yêu cầu tổng thống Diệm tuyên bố chính thức rằng chất phát
quang cây cỏ không gây nguy hại đến con người hay thú vật.
Ngày 30-11-1961, văn bản chính thức mở đường cho chiến
tranh diệt cỏ tại Việt Nam được ban hành trong đó ghi rõ:
“Tổng thống (Kennedy) đã phê chuẩn đề xuất của ngoại trưởng và
bộ trưởng quốc phòng về việc tham gia chương trình phối hợp rải hóa chất phát
quang cây cỏ tại Việt Nam với quy mô chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ, bắt đầu
bằng việc phát quang các tuyến đường trọng yếu và tiếp tục bằng việc tiêu diệt
nguồn lương thực, tuy nhiên chỉ thực hiện khi đã thiết lập được nguồn lương thực
thay thế và hoàn tất phần căn bản của tiến trình tái định cư. Không phê chuẩn
việc rải hóa chất ở khu vực D và vùng biên giới cho đến khi quân đội xác lập
được tính hiệu quả của việc này”.
Đầu tháng 12-1961, dưới sự dẫn dắt của Trung tâm không chiến
đặc nhiệm thuộc Không lực Mỹ, máy bay vận chuyển C-123 cất cánh từ nhiều căn cứ
quân đội Mỹ, khởi đầu chiến dịch Bàn tay nông trại được triển khai trên khoảng
10.000 hecta đất miền Nam Việt Nam.
Kỳ 2: Trận chiến trong lòng nước Mỹ
Dưới thời tổng thống Lyndon B. Johnson, số phi vụ rải hóa chất
ngày càng tăng cao, đặc biệt là giai đoạn 1966-1968. Tổng cộng trong suốt 10
năm, 5 triệu hecta đất trên toàn miền Nam, chiếm 12% diện tích Việt Nam, đã hứng
chịu các loại hóa chất phát quang cây cỏ.
Dưới thời tổng thống Lyndon B. Johnson, số phi vụ rải hóa chất
ngày càng tăng cao, đặc biệt là giai đoạn 1966-1968. Tổng cộng trong suốt 10
năm, 5 triệu hecta đất trên toàn miền Nam, chiếm 12% diện tích Việt Nam, đã hứng
chịu các loại hóa chất phát quang cây cỏ.
Wilfred Burchett, một phóng viên Úc, là người đầu tiên công
khai phản đối chiến tranh diệt cỏ của Mỹ trong bài viết mang tựa đề Miền Nam
Việt Nam: cuộc chiến chống lại cây cỏ, đăng trên tờ Thời Đại Mới tại Liên Xô.
Không lâu sau đó, nhiều chính khách Mỹ bắt đầu bày tỏ sự quan ngại của mình.
Giới khoa học phản đối mạnh mẽ
Hạ nghị sĩ bang Wisconsin Robert Kastenmeier gửi thư cho tổng
thống Kennedy từ năm 1963 kêu gọi ngừng các đợt rải hóa chất tại Việt Nam vì lý
do pháp lý và đạo đức. Hai tuần sau đó, tạp chí chính trị hàng đầu tại Mỹ, tờ
Tân Cộng Hòa, đăng tải bài xã luận đầu tiên phản đối loại hình chiến tranh diệt
cỏ. Động thái của Tân Cộng Hòa gây tác động lớn trong cộng đồng khoa học Mỹ.
Tháng 10-1964, tờ Bản tin của các nhà khoa học Mỹ, cơ quan phát
ngôn của Liên đoàn Các nhà khoa học Mỹ (FAS), chính thức đăng bài kêu gọi Chính
phủ Mỹ ngừng các đợt rải hóa chất: “...FAS thúc giục tổng thống tuyên bố chính
sách cấm khai chiến bằng các loại vũ khí hóa sinh học, ngừng sản xuất các loại
vũ khí sinh học, đồng thời ngưng phát triển các loại vũ khí mới”.
Một năm sau đó, Hiệp hội Vì sự tiến bộ của khoa học Mỹ (AAAS)
bắt đầu tham gia cuộc chiến chống chiến tranh diệt cỏ. Tại buổi họp thường niên
của AAAS năm 1965, tổ chức này công bố một nghị quyết mang tên Dàn xếp chiến
tranh Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Việc kéo dài chiến tranh Việt Nam đe dọa
không chỉ sinh mạng của hàng triệu người mà còn hủy hoại các giá trị và mục tiêu
nhân bản mà chúng ta đang cố gắng gìn giữ...
Với tư cách là nhà khoa học, chúng tôi có trách nhiệm phải chỉ
rõ cái giá mà nghiên cứu khoa học đang phải gánh chịu vì chiến tranh. Khoa học
không thể phồn thịnh, thậm chí có thể bị thiệt hại, trong một quốc gia ngày càng
tăng cường nguồn lực cho các mục đích quân sự”.
Mùa hè năm 1966, giáo sư Bert Pfeiffer thuộc Đại học Montana,
thành viên của AAAS, khởi đầu phong trào khoa học phản đối chiến dịch Bàn tay
nông trại bằng việc soạn thảo một văn bản kêu gọi tiến hành điều tra tác động
của hóa chất phát quang cây cỏ tại miền Nam Việt Nam.
Ban đầu, hội đồng điều hành của AAAS bác bỏ yêu cầu của giáo sư
Pfeiffer về việc hiệp hội này tham gia trực tiếp quá trình điều tra. Tuy nhiên
đến tháng 9-1967, chủ tịch AAAS Don Price đã gửi thư cho bộ trưởng quốc phòng
McNamara đề xuất việc bộ này phê chuẩn và hỗ trợ một cơ quan khoa học độc lập
tiến hành nghiên cứu những tác động ngắn và dài hạn của chất độc da cam.
Trước đó tháng 1-1966, 29 nhà khoa học thuộc Đại học Harvard và
các cơ quan giáo dục khác tại thành phố Boston đã gửi đến Nhà Trắng một thư ngỏ
phản đối chiến tranh diệt cỏ và yêu cầu chấm dứt các hoạt động quân sự liên
quan. Trong lá thư, nhóm các nhà khoa học này tuyên bố việc rải hóa chất tại
miền Nam Việt Nam là “man rợ”, tương đương với “một cuộc tấn công vào toàn bộ cư
dân tại vùng mà mùa màng bị tiêu diệt”.
Theo một văn bản trong hồ sơ Nhà Trắng, đích thân tổng thống
Johnson ra lệnh cho bộ tham mưu của mình làm ngơ với thư ngỏ này. Lá thư nói
trên chính là ý tưởng tiền thân cho cụm từ “tội ác môi trường” (ecocide) mà tiến
sĩ Arthur Galston đặt ra sau này.
Tháng 9-1966, một nhóm gồm 12 nhà lý sinh học do tiến sĩ
Galston dẫn đầu tiếp tục gửi một lá thư khác đến Nhà Trắng kêu gọi tổng thống
Johnson ngừng rải hóa chất tại Việt Nam.
Trong thư, các nhà khoa học nhấn mạnh: “Một hóa chất được tạo
ra để làm rụng lá cây cũng có thể gây ra tác động phụ đối với các loài cây cỏ
khác, trong đó có cả vụ mùa... Do tính độc hại của một số hóa chất, không thể
bảo đảm rằng hợp chất phát quang hoàn toàn không có ảnh hưởng độc hại đến con
người và thú nuôi trong nhà... Sử dụng hợp chất phát quang cây cỏ một cách ồ ạt
có thể làm phương hại đến hệ sinh thái của toàn vùng, thậm chí có thể đến mức
thảm họa”.
Lá thư cũng đề cập tác hại của việc hủy hoại mùa màng đối với
người dân vùng bị rải hóa chất, cụ thể là việc phụ nữ và trẻ em bị mất nguồn
lương thực.
Hai tuần sau đó, tiến sĩ Galston nhận được hồi đáp của một trợ
lý ngoại trưởng, khẳng định rằng những quan ngại khoa học đưa ra là không có cơ
sở.
Ngay trong nội bộ AAAS, nhóm các nhà khoa học bày tỏ quan ngại
về chất độc da cam cũng rơi vào tình trạng thiểu số. Một trưng cầu nội bộ của
hiệp hội này tại thời điểm đó cho thấy 81% ủng hộ chiến dịch rải hóa chất của
Chính phủ Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
Viện Nghiên cứu trung tây (MRI) thuộc Đại học Kansas, cơ quan
được Bộ Quốc phòng Mỹ giao hợp đồng tiến hành đánh giá tác động của chất độc da
cam, kết thúc chương trình nghiên cứu vào tháng 12-1967 với kết luận chung rằng
chiến dịch Bàn tay nông trại chỉ là phần mở rộng quân sự của các hoạt động phát
quang cây cỏ thông thường, và chỉ có tác động lên cây cỏ “tương đương với việc
phát quang rừng bỏ hoang”.
Những bằng chứng đánh động dư luận
Ngày 19-7-1968, ban giám đốc AAAS công bố tuyên ngôn trên tạp
chí Khoa Học, kêu gọi tiến hành gấp rút các cuộc nghiên cứu dài hạn tại hiện
trường miền Nam Việt Nam, yêu cầu quân đội Mỹ công khai tài liệu cho các cơ quan
nghiên cứu độc lập, và kêu gọi Liên Hiệp Quốc dẫn đầu một đoàn nghiên cứu đến
Việt Nam.
Lầu Năm Góc bác bỏ yêu cầu này. Tuy nhiên, trợ lý ngoại trưởng
Mỹ Charles Bohlen lại bày tỏ sự hưởng ứng mạnh mẽ đối với quan điểm của AAAS.
Dưới áp lực của Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc nhượng bộ vào tháng 10-1968.
Tháng 8-1970, hai giáo sư Mỹ Bert Pfeiffer và Gordon Orians
tiến hành đợt khảo sát đầu tiên trong vòng hai tuần tại miền Nam Việt Nam. Báo
cáo của chuyến khảo sát này, đăng trên bản tin của Tổ chức vì trách nhiệm xã hội
của khoa học (SSRS), ghi nhận sự thiếu vắng rõ ràng của chim chóc và các loài
động vật hoang dã tại các vùng bị rải hóa chất, và sự khác biệt của chất lượng
rừng phụ thuộc vào mức độ rải hóa chất - ở những vùng rừng bị rải nhiều đợt, các
loại hạt và giống cây yếu chết hàng loạt trên diện tích rộng hàng trăm hecta.
Sinh thái của những vùng lân cận cũng chịu ảnh hưởng nặng nề,
đặc biệt là những vùng rừng cao su vốn nằm ngoài danh sách mục tiêu rải hóa chất
trực tiếp.
Trước đó năm 1969, William Haseltine, sinh viên ngành sinh học
tại Đại học Harvard, tiếp cận được tài liệu cho thấy các quan chức Chính phủ Mỹ
đang giấu thông tin về ảnh hưởng tiềm ẩn của chất 2,4,5-T (một thành phần trong
hợp chất da cam) đối với phôi thai ở loài chuột.
Haseltine cho biết phản ứng của ông lúc đó là: “Nếu loại chất
này gây dị tật cho chuột sơ sinh, hẳn cũng phải có tác động xấu đối với con
người. Công bố thông tin này chắc hẳn có thể giúp ngăn chặn được việc sử dụng
chất độc da cam”.
Tháng 1-1970, Haseltine công bố thông tin này trên tạp chí Tân
Cộng Hòa trong bài báo đồng tác giả với giáo sư Galston và một sinh viên Đại học
Yale tên Robert Cook. Bài báo gây chấn động mạnh mẽ trong xã hội Mỹ.
Tháng 4-1970, Chính phủ Mỹ bắt đầu những nỗ lực tránh cho con
người không phải tiếp xúc với chất 2,4,5-T ở cả hai phía Mỹ và miền Nam Việt
Nam. Bộ trưởng các bộ nông nghiệp, nội vụ, y tế, giáo dục và phúc lợi Mỹ đồng
loạt công bố quyết định ngừng tức thì việc sử dụng hóa chất này trong mọi hoạt
động liên quan đến tiêu thụ của con người.
Cũng trong tháng 4-1970, thứ trưởng Bộ Quốc phòng David Packard
cuối cùng đã hạ lệnh chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng chất độc da cam “cho đến
khi kết thúc quá trình đánh giá tình hình (ảnh hưởng của chất này)”.
------------------------
(*): The invention of ecocide: Agent Orange, Vietnam, and the scientists who changed the way we think about the environment (NXB Đại học Georgia phát hành ngày 1-5-2011)
(*): The invention of ecocide: Agent Orange, Vietnam, and the scientists who changed the way we think about the environment (NXB Đại học Georgia phát hành ngày 1-5-2011)
CAM LY lược dịch ( Tuổi trẻ cuối tuần)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét