Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Hồ sơ: Hành trình 10 năm hủy diệt của chất độc da cam



TTCT - Năm mươi năm sau ngày tổng thống Kennedy ký lệnh phát động chiến dịch rải chất độc da cam tại miền Nam Việt Nam, sử gia Mỹ David Zierler công bố hồ sơ chi tiết về hành trình 10 năm hủy diệt của loại chất độc này (1961-1970).
Cuốn sách Phát minh hủy diệt môi trường: Chất độc màu da cam, Việt Nam, và những nhà khoa học làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về môi trường (*) được đánh giá là một trong những tài liệu nghiên cứu giàu thông tin và toàn diện nhất về chất độc da cam cho đến nay.
Được sự đồng ý của tác giả, TTCT trích đăng trong hai kỳ một số nội dung của quyển sách.

Kỳ 1: Từ chất diệt cỏ đến vũ khí công nghệ

Trưởng khoa thực vật thuộc Đại học Chicago, GS Ezra E.J. Kraus, là nhà khoa học Mỹ đầu tiên nhận ra tiềm năng quân sự của hóa chất diệt cỏ ngay từ khi nước Mỹ bắt đầu tham dự Thế chiến thứ hai. Ngày 17-2-1942, ông đã trình bày một báo cáo về khả năng sử dụng các chất diệt cỏ như một loại vũ khí quân đội trong cuộc họp tối mật của Ban tư vấn chiến tranh Mỹ.
Thử nghiệm thành công từ Thế chiến thứ hai
Vào thời điểm đó, giới khoa học Mỹ vẫn còn đang trong giai đoạn khám phá tác động của các loại hóa chất này. Các dự án nghiên cứu trên diện rộng mà GS Kraus chủ trì được tiến hành trong thập niên 1940 đã kết hợp hai hóa chất 2,4-D và 2,4,5-T (chiếm 50% trong hợp chất da cam) và thử nghiệm thành công trong môi trường giả lập chiến tranh. Tuy nhiên, quân đội Mỹ đã không sử dụng hợp chất mới phát minh này trong suốt Thế chiến thứ hai.
Khoảng mùa thu năm 1961, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGP) đã tiến gần đến thế lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Đứng trước khả năng thất bại trên mặt trận quân sự và ngoại giao ở nhiều nơi, đặc biệt là Cuba và Berlin, tổng thống Kennedy và nhóm cố vấn đối ngoại của mình bắt đầu tính đến việc phát động các chiến dịch quân sự công nghệ cao như một cách đối phó với sự mở rộng của khối các quốc gia cộng sản.
Các chất diệt cỏ do nhóm nghiên cứu của GS Kraus phát minh trong Thế chiến thứ hai trở thành vũ khí trọng tâm trong chiến lược chống chiến tranh du kích, với mục đích hủy hoại môi trường sống và nguồn lương thực của du kích MTDTGP trên toàn vùng nông thôn Nam bộ.
Ngày 26-4-1961, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ Roswell L. Gilpatric trình lên tổng thống Kennedy một chương trình hành động, trong đó đề cập việc thành lập một trung tâm nghiên cứu và phát triển đóng tại miền Nam Việt Nam, chịu trách nhiệm phát minh các kỹ thuật chống du kích, với lý do quân đội Mỹ thời đó không có đủ phương tiện theo dõi trên không để định vị lộ trình của du kích MTDTGP.
Hai tuần sau đó, chính phủ Ngô Đình Diệm thông qua kế hoạch này, và Cơ quan Dự án nghiên cứu cấp cao thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ chính thức thành lập Trung tâm Thí nghiệm phát triển và chiến đấu (CDTC).
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của CDTC là tìm ra hợp chất hóa học để hủy hoại bề mặt rừng và các loại nông lương mà du kích MTDTGP tiêu thụ. Ở giai đoạn thử nghiệm, CDTC tiếp nhận lô hàng thiết bị và chất diệt cỏ đầu tiên vào ngày 10-7-1961. Sau đợt thử nghiệm thành công, giám đốc James W. Brown xác nhận hợp chất phát quang cây cỏ sẽ là thành tố chính trong chiến lược đối phó với chiến tranh du kích. “Không ai đánh giá cao lương thực và tầm nhìn bằng những kẻ bị mất hai thứ này” - ông nhấn mạnh.
Vỏ bọc của “chiến tranh diệt cỏ”
Ban đầu quân đội Mỹ dự kiến chỉ trang bị và huấn luyện cho lực lượng không quân Việt Nam cộng hòa (VNAF) tiến hành “chiến tranh diệt cỏ” (tạm dịch từ herbicidal warfare). Ngày 24-8-1961, tổng thống Diệm đích thân lựa chọn mục tiêu, và máy bay C-47 của VNAF tiến hành đợt rải hóa chất đầu tiên xuống vùng rừng miền Nam Việt Nam. Ông Diệm lập tức nhận ra sự lợi hại của loại hình chiến tranh này.
Trong buổi họp ngày 29-9 với đại sứ Mỹ Fredrick Nolting và trung tướng McGarr, tổng thống Diệm đề xuất tiến hành chiến dịch rải hóa chất trên diện rộng tại vùng cao nguyên Trung bộ để diệt nguồn lương thực mùa thu của du kích MTDTGP, nhưng không nhận được lời hứa hậu thuẫn chính thức từ phía Mỹ.
Tuy vậy, một tuần trước đó, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đã đồng soạn thảo một văn bản trong đó phác thảo kế hoạch cấp kỳ để ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền Diệm. Kế hoạch này bao gồm một loạt chiến dịch quân sự chống du kích mà nếu thành công sẽ loại bỏ khả năng quân đội Mỹ phải gửi quân tham chiến trực tiếp. Văn bản này ghi rõ bốn mục tiêu của chiến tranh diệt cỏ theo đề xuất của CDTC:
1. Phát quang vùng rừng biên giới Lào - Campuchia - Bắc Việt Nam để loại bỏ “vỏ bọc” bảo vệ quân MTDTGP.
2. Phát quang một phần vùng đồng bằng Mekong (vùng D) được coi là khu vực mà quân du kích MTDTGP có nhiều căn cứ.
3. Phát quang các vùng trồng sắn được coi là nguồn lương thực của du kích.
4. Phát quang các vùng rừng đước được coi là nơi du kích ẩn náu.
Chiến dịch rải hóa chất dự kiến sẽ chấm dứt trong vòng 120 ngày, tiến hành trên một diện tích rộng bằng một nửa miền Nam Việt Nam, với tổng ngân sách 55,9 triệu USD. Tuy cuối cùng đề xuất này đã được thay thế bằng một đề xuất khác của Đại sứ quán Mỹ tại miền Nam - cùng quy mô nhưng chi phí chỉ bằng 1/10, văn bản nói trên cho thấy bước chuyển quan trọng trong chính sách chiến tranh của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đánh dấu việc “Mỹ hóa” loại hình chiến tranh diệt cỏ.
Tháng 11-1961, quân đội Mỹ đã sẵn sàng vận chuyển hóa chất và thiết bị sang Việt Nam, chỉ còn chờ lệnh của tổng thống Kennedy. Vào thời điểm đó, tổng thống Mỹ đã nhận được đề xuất của ban cố vấn đối ngoại của chính phủ, trong đó có ngoại trưởng Dean Rusk và bộ trưởng quốc phòng McNamara.
Tuy cả hai đều thừa nhận loại hình chiến tranh này có thể gây tranh cãi, ngoại trưởng Rusk khẳng định các chiến dịch rải hóa chất không vi phạm luật quốc tế và “là một chiến lược chiến tranh có thể chấp nhận được”. Đồng thời, ông McNamara yêu cầu tổng thống Diệm tuyên bố chính thức rằng chất phát quang cây cỏ không gây nguy hại đến con người hay thú vật.
Ngày 30-11-1961, văn bản chính thức mở đường cho chiến tranh diệt cỏ tại Việt Nam được ban hành trong đó ghi rõ:
“Tổng thống (Kennedy) đã phê chuẩn đề xuất của ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng về việc tham gia chương trình phối hợp rải hóa chất phát quang cây cỏ tại Việt Nam với quy mô chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ, bắt đầu bằng việc phát quang các tuyến đường trọng yếu và tiếp tục bằng việc tiêu diệt nguồn lương thực, tuy nhiên chỉ thực hiện khi đã thiết lập được nguồn lương thực thay thế và hoàn tất phần căn bản của tiến trình tái định cư. Không phê chuẩn việc rải hóa chất ở khu vực D và vùng biên giới cho đến khi quân đội xác lập được tính hiệu quả của việc này”.
Đầu tháng 12-1961, dưới sự dẫn dắt của Trung tâm không chiến đặc nhiệm thuộc Không lực Mỹ, máy bay vận chuyển C-123 cất cánh từ nhiều căn cứ quân đội Mỹ, khởi đầu chiến dịch Bàn tay nông trại được triển khai trên khoảng 10.000 hecta đất miền Nam Việt Nam.


Kỳ 2: Trận chiến trong lòng nước Mỹ
 
Xem hình

TTCT - Tháng 8-1962, Nhà Trắng phát tín hiệu về việc mở rộng chiến dịch Bàn tay nông trại từ giai đoạn thử nghiệm sang hoạt động quân sự thường xuyên nhằm hậu thuẫn chính quyền Sài Gòn.
Dưới thời tổng thống Lyndon B. Johnson, số phi vụ rải hóa chất ngày càng tăng cao, đặc biệt là giai đoạn 1966-1968. Tổng cộng trong suốt 10 năm, 5 triệu hecta đất trên toàn miền Nam, chiếm 12% diện tích Việt Nam, đã hứng chịu các loại hóa chất phát quang cây cỏ.
Dưới thời tổng thống Lyndon B. Johnson, số phi vụ rải hóa chất ngày càng tăng cao, đặc biệt là giai đoạn 1966-1968. Tổng cộng trong suốt 10 năm, 5 triệu hecta đất trên toàn miền Nam, chiếm 12% diện tích Việt Nam, đã hứng chịu các loại hóa chất phát quang cây cỏ.
Wilfred Burchett, một phóng viên Úc, là người đầu tiên công khai phản đối chiến tranh diệt cỏ của Mỹ trong bài viết mang tựa đề Miền Nam Việt Nam: cuộc chiến chống lại cây cỏ, đăng trên tờ Thời Đại Mới tại Liên Xô. Không lâu sau đó, nhiều chính khách Mỹ bắt đầu bày tỏ sự quan ngại của mình.
Giới khoa học phản đối mạnh mẽ
Hạ nghị sĩ bang Wisconsin Robert Kastenmeier gửi thư cho tổng thống Kennedy từ năm 1963 kêu gọi ngừng các đợt rải hóa chất tại Việt Nam vì lý do pháp lý và đạo đức. Hai tuần sau đó, tạp chí chính trị hàng đầu tại Mỹ, tờ Tân Cộng Hòa, đăng tải bài xã luận đầu tiên phản đối loại hình chiến tranh diệt cỏ. Động thái của Tân Cộng Hòa gây tác động lớn trong cộng đồng khoa học Mỹ.
Tháng 10-1964, tờ Bản tin của các nhà khoa học Mỹ, cơ quan phát ngôn của Liên đoàn Các nhà khoa học Mỹ (FAS), chính thức đăng bài kêu gọi Chính phủ Mỹ ngừng các đợt rải hóa chất: “...FAS thúc giục tổng thống tuyên bố chính sách cấm khai chiến bằng các loại vũ khí hóa sinh học, ngừng sản xuất các loại vũ khí sinh học, đồng thời ngưng phát triển các loại vũ khí mới”.
Một năm sau đó, Hiệp hội Vì sự tiến bộ của khoa học Mỹ (AAAS) bắt đầu tham gia cuộc chiến chống chiến tranh diệt cỏ. Tại buổi họp thường niên của AAAS năm 1965, tổ chức này công bố một nghị quyết mang tên Dàn xếp chiến tranh Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Việc kéo dài chiến tranh Việt Nam đe dọa không chỉ sinh mạng của hàng triệu người mà còn hủy hoại các giá trị và mục tiêu nhân bản mà chúng ta đang cố gắng gìn giữ...
Với tư cách là nhà khoa học, chúng tôi có trách nhiệm phải chỉ rõ cái giá mà nghiên cứu khoa học đang phải gánh chịu vì chiến tranh. Khoa học không thể phồn thịnh, thậm chí có thể bị thiệt hại, trong một quốc gia ngày càng tăng cường nguồn lực cho các mục đích quân sự”.
Mùa hè năm 1966, giáo sư Bert Pfeiffer thuộc Đại học Montana, thành viên của AAAS, khởi đầu phong trào khoa học phản đối chiến dịch Bàn tay nông trại bằng việc soạn thảo một văn bản kêu gọi tiến hành điều tra tác động của hóa chất phát quang cây cỏ tại miền Nam Việt Nam.
Ban đầu, hội đồng điều hành của AAAS bác bỏ yêu cầu của giáo sư Pfeiffer về việc hiệp hội này tham gia trực tiếp quá trình điều tra. Tuy nhiên đến tháng 9-1967, chủ tịch AAAS Don Price đã gửi thư cho bộ trưởng quốc phòng McNamara đề xuất việc bộ này phê chuẩn và hỗ trợ một cơ quan khoa học độc lập tiến hành nghiên cứu những tác động ngắn và dài hạn của chất độc da cam.
Trước đó tháng 1-1966, 29 nhà khoa học thuộc Đại học Harvard và các cơ quan giáo dục khác tại thành phố Boston đã gửi đến Nhà Trắng một thư ngỏ phản đối chiến tranh diệt cỏ và yêu cầu chấm dứt các hoạt động quân sự liên quan. Trong lá thư, nhóm các nhà khoa học này tuyên bố việc rải hóa chất tại miền Nam Việt Nam là “man rợ”, tương đương với “một cuộc tấn công vào toàn bộ cư dân tại vùng mà mùa màng bị tiêu diệt”.
Theo một văn bản trong hồ sơ Nhà Trắng, đích thân tổng thống Johnson ra lệnh cho bộ tham mưu của mình làm ngơ với thư ngỏ này. Lá thư nói trên chính là ý tưởng tiền thân cho cụm từ “tội ác môi trường” (ecocide) mà tiến sĩ Arthur Galston đặt ra sau này.
Tháng 9-1966, một nhóm gồm 12 nhà lý sinh học do tiến sĩ Galston dẫn đầu tiếp tục gửi một lá thư khác đến Nhà Trắng kêu gọi tổng thống Johnson ngừng rải hóa chất tại Việt Nam.
Trong thư, các nhà khoa học nhấn mạnh: “Một hóa chất được tạo ra để làm rụng lá cây cũng có thể gây ra tác động phụ đối với các loài cây cỏ khác, trong đó có cả vụ mùa... Do tính độc hại của một số hóa chất, không thể bảo đảm rằng hợp chất phát quang hoàn toàn không có ảnh hưởng độc hại đến con người và thú nuôi trong nhà... Sử dụng hợp chất phát quang cây cỏ một cách ồ ạt có thể làm phương hại đến hệ sinh thái của toàn vùng, thậm chí có thể đến mức thảm họa”.
Lá thư cũng đề cập tác hại của việc hủy hoại mùa màng đối với người dân vùng bị rải hóa chất, cụ thể là việc phụ nữ và trẻ em bị mất nguồn lương thực.
Hai tuần sau đó, tiến sĩ Galston nhận được hồi đáp của một trợ lý ngoại trưởng, khẳng định rằng những quan ngại khoa học đưa ra là không có cơ sở.
Ngay trong nội bộ AAAS, nhóm các nhà khoa học bày tỏ quan ngại về chất độc da cam cũng rơi vào tình trạng thiểu số. Một trưng cầu nội bộ của hiệp hội này tại thời điểm đó cho thấy 81% ủng hộ chiến dịch rải hóa chất của Chính phủ Mỹ tại miền Nam Việt Nam.
Viện Nghiên cứu trung tây (MRI) thuộc Đại học Kansas, cơ quan được Bộ Quốc phòng Mỹ giao hợp đồng tiến hành đánh giá tác động của chất độc da cam, kết thúc chương trình nghiên cứu vào tháng 12-1967 với kết luận chung rằng chiến dịch Bàn tay nông trại chỉ là phần mở rộng quân sự của các hoạt động phát quang cây cỏ thông thường, và chỉ có tác động lên cây cỏ “tương đương với việc phát quang rừng bỏ hoang”.
Những bằng chứng đánh động dư luận
Ngày 19-7-1968, ban giám đốc AAAS công bố tuyên ngôn trên tạp chí Khoa Học, kêu gọi tiến hành gấp rút các cuộc nghiên cứu dài hạn tại hiện trường miền Nam Việt Nam, yêu cầu quân đội Mỹ công khai tài liệu cho các cơ quan nghiên cứu độc lập, và kêu gọi Liên Hiệp Quốc dẫn đầu một đoàn nghiên cứu đến Việt Nam.
Lầu Năm Góc bác bỏ yêu cầu này. Tuy nhiên, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Charles Bohlen lại bày tỏ sự hưởng ứng mạnh mẽ đối với quan điểm của AAAS. Dưới áp lực của Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc nhượng bộ vào tháng 10-1968.
Tháng 8-1970, hai giáo sư Mỹ Bert Pfeiffer và Gordon Orians tiến hành đợt khảo sát đầu tiên trong vòng hai tuần tại miền Nam Việt Nam. Báo cáo của chuyến khảo sát này, đăng trên bản tin của Tổ chức vì trách nhiệm xã hội của khoa học (SSRS), ghi nhận sự thiếu vắng rõ ràng của chim chóc và các loài động vật hoang dã tại các vùng bị rải hóa chất, và sự khác biệt của chất lượng rừng phụ thuộc vào mức độ rải hóa chất - ở những vùng rừng bị rải nhiều đợt, các loại hạt và giống cây yếu chết hàng loạt trên diện tích rộng hàng trăm hecta.
Sinh thái của những vùng lân cận cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là những vùng rừng cao su vốn nằm ngoài danh sách mục tiêu rải hóa chất trực tiếp.
Trước đó năm 1969, William Haseltine, sinh viên ngành sinh học tại Đại học Harvard, tiếp cận được tài liệu cho thấy các quan chức Chính phủ Mỹ đang giấu thông tin về ảnh hưởng tiềm ẩn của chất 2,4,5-T (một thành phần trong hợp chất da cam) đối với phôi thai ở loài chuột.
Haseltine cho biết phản ứng của ông lúc đó là: “Nếu loại chất này gây dị tật cho chuột sơ sinh, hẳn cũng phải có tác động xấu đối với con người. Công bố thông tin này chắc hẳn có thể giúp ngăn chặn được việc sử dụng chất độc da cam”.
Tháng 1-1970, Haseltine công bố thông tin này trên tạp chí Tân Cộng Hòa trong bài báo đồng tác giả với giáo sư Galston và một sinh viên Đại học Yale tên Robert Cook. Bài báo gây chấn động mạnh mẽ trong xã hội Mỹ.
Tháng 4-1970, Chính phủ Mỹ bắt đầu những nỗ lực tránh cho con người không phải tiếp xúc với chất 2,4,5-T ở cả hai phía Mỹ và miền Nam Việt Nam. Bộ trưởng các bộ nông nghiệp, nội vụ, y tế, giáo dục và phúc lợi Mỹ đồng loạt công bố quyết định ngừng tức thì việc sử dụng hóa chất này trong mọi hoạt động liên quan đến tiêu thụ của con người.
Cũng trong tháng 4-1970, thứ trưởng Bộ Quốc phòng David Packard cuối cùng đã hạ lệnh chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng chất độc da cam “cho đến khi kết thúc quá trình đánh giá tình hình (ảnh hưởng của chất này)”. 

------------------------
(*): The invention of ecocide: Agent Orange, Vietnam, and the scientists who changed the way we think about the environment (NXB Đại học Georgia phát hành ngày 1-5-2011)
CAM LY lược dịch ( Tuổi trẻ cuối tuần)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét